BÀI SUY NIỆM VỀ LỄ MẸ SẦU BI
LỄ ĐỨC MẸ SẦU BI Lm Phêrô, CRM I. Tiến Trình Tín Lý Đức Mẹ Đồng Công Thế kỷ II, Thánh Giustinô khởi xướng tín lý Mẹ Maria cộng tác với Chúa Giêsu Con Mẹ trong công trình Cứu chuộc loài người. Thánh Giáo phụ dựa vào câu Tiền Phúc âm (St 3:15): Thiên Chúa phán hứa sẽ đặt một Phụ Nữ chiến thắng ác thần thay thế người phụ nữ đã bị ác thần đánh bại, và thánh nhân suy diễn sự tương phản trong Thư Thánh Phaolô (Rm 5:12; 1Cr 15:21-22) giữa cựu Ađam và Tân Ađam. Cựu Ađam đã đem tội lỗi và sự chết vào trần gian. Đối lại, Tân Ađam đã phục hồi loài người. Cựu Ađam không một mình làm sa đoạ loài người, vì bà Evà đã cộng tác vào tội Ađam. Cũng thế, Tân Ađam không một mình hồi phục loài người, vì Đức Maria đã cộng tác với Người trong công trình Cứu thế. Trong cuộc đối thoại với lạc giáo Tryphon, Thánh Giustinô nói: "Evà nghe theo lời con Rắn đã sinh ra sự bất tuân và sự chết. Đức Trinh Nữ Maria đáp lại lời Thiên thần Gabrie loan tin mừng rằng Đấng Thánh sinh ra bởi Mẹ sẽ là Con Thiên Chúa. Nhờ Người, Thiên Chúa đánh bại con Rắn và những thiên thần, những người giống như con Rắn". Tín lý Mẹ Maria cộng tác với Chúa Cứu thế qua luận lý tương phản giữa bà Evà và Mẹ Maria của Thánh Giustinô đã được các Thánh Giáo phụ diễn giải và bổ túc. A- Từ thế kỷ II đến thế kỷ VIII: Đặc biệt là Thánh Êphrem, Thánh Ambrôsiô, Thánh Êpiphanô, Thánh Phêrô Kim ngôn, Thánh Môdestô và Thánh Đamascenô. B- Từ thế kỷ IX tới thế kỷ XVI: Các Thánh tiến sĩ và các nhà thần học đồng thanh tiếp tục minh chứng vai trò cộng tác vào công cuộc Cứu chuộc của Mẹ. Các Thánh tiến sĩ như Thánh Đamianô, Thánh Anselmô, Thánh Bênađô, Thánh Bônaventura, Thánh Albertô, Thánh Tôma, Thánh Canisiô. Các nhà thần học như Eadmer, Arnold Chartres, Richard St. Lawrence, Tauler, Gerson, Denis the Carthusian, Clichtove, Salmeron, Morales, Suarez. Danh từ Đấng Đồng công (Coredemptrix) bắt đầu xuất hiện từ thế kỷ XIV trong một Thánh thi của nhà thờ Thánh Phêrô tại thành Salzburg (Austria): Pia, dulcis et benigna, Nghĩa là: Mẹ nhân từ, hiền dịu và khoan dung, C- Từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX: Tín lý Mẹ Đồng Công được các Thánh tiến sĩ và các nhà thần học khai triển rộng rãi, mặc dù gặp phản ứng của giáo phái Cải cách. Trong các Thánh thì có Thánh Laurensô Brindisi, Thánh Robertô Bellarminô, Thánh Euđê, Thánh Grignion Montfort, Thánh Anphong Ligouri. Các nhà thần học như Đức Hồng y Berulle, Cornelius a Lapide, Gaspar Tausch, Salazar, Vulpes, Novati, Luke Wadding, George de Rhodes, Reichensperger, Dubois, Widenfeld, Crasset, Van Ketwigh, Charles del Moral, Trombelli, De Clorivière, Jeanjacquot, Peraldi, Faber, Hồng y Wiseman, Hồng y Newman, Hồng y Manning, Scheeben, Đức Piô IX, Đức Lêô XIII. Trong thế kỷ XIX, danh từ Đấng Đồng công năng được dùng. D- Thế kỷ XX: Tín lý Mẹ Đồng công được các Đức Giáo hoàng: Đức Lêô XIII, Đức Thánh Piô X, Đức Bênêđictô XV, Đức Piô XI, Đức Piô XII, Đức Gioan Phaolô II giảng dạy rất minh bạch. Riêng Đức Piô XI kêu xin Đức Mẹ rõ ràng với tước hiệu Đấng Đồng công. Và Đức Gioan Phaolô II cũng nêu bật giáo huấn về vai trò Đức Mẹ Đồng công, đặc biệt trong Thông điệp "Mẹ Đấng Cứu Thế", Tông thư "Sự Khổ đau Cứu chuộc", và ngài rõ ràng dùng tước hiệu "Coredemptrix" có tới 5 lần:
Ngoài ra, trong 52 buổi đại triều yết, Đức Thánh Cha nêu cao vai trò Đồng công đặc biệt của Mẹ trong nhiệm cuộc Cứu thế của Chúa Kitô. Công đồng Vatican II, dưới triều đại Đức Gioan XXIII và Đức Phaolô VI, đã minh nhiên nêu rõ sứ mạng Đồng công của Mẹ: "Đức Maria đã tận hiến làm tôi tớ Chúa, phục vụ cho thân thế và sự nghiệp của Con Mẹ, và phục vụ mầu nhiệm Cứu chuộc dưới quyền và cùng với Con của Mẹ... Sự liên kết giữa Mẹ và Con trong công cuộc Cứu rỗi được tỏ rõ, từ khi Mẹ Maria thụ thai Chúa Kitô cách trinh khiết cho đến lúc Chúa Kitô chết". Theo cha Dillenschneider, thế kỷ XX có rất nhiều nhà thần học diễn giải tín lý Đức Mẹ Đồng công. Đó là các nhà thần học Le Rohellec, Broise, Bainvel, Bittremieux, Friethoff, Bover, Garcia Garces, Borzi, Seiler, Philipon, Deneffe, Carol, Hugon, Anger, Mura, Rondel, Hồng y Lépicier, Terrien, Keuppens, Merkelbach, Boyer, Roschini, Lagrange, v.v. Từ tháng 3 năm 1993, phong trào "Vox Populi" (Tiếng dân) đã phát động khắp Giáo hội "Chiến dịch Thỉnh nguyện thư" tâu xin Đức Thánh Cha tuyên tín Mẹ Maria là "Đấng Đồng công". Phong trào này do tiến sĩ thần học Mark Miravalle, giáo sư đại học dòng Phanxicô tại Steubenville, bang Ohio, Hoa Kỳ, lãnh đạo, với ban cố vấn gồm 32 Hồng y. Cho tới tháng 10-1997, phong trào đã thu thập được chữ ký của hơn 500 Giám mục, 55 Hồng y và 5 triệu tín hữu thuộc 155 quốc gia. Cuối tháng 5 năm 1996, một Hội nghị quốc tế được tổ chức tại Rôma gồm 3 Hồng y, 13 Giám mục, và một số đông linh mục, giáo dân chính thức yểm trợ phong trào "Vox populi". Tín lý về Mẹ Maria cộng tác với Chúa Giêsu, Con Mẹ, trong công cuộc Cứu thế qua các thời đại, đã được sáng tỏ và vững chắc. Còn danh từ Mẹ Đồng công Core-demptrix, tuy đã được dùng trong Giáo hội từ thế kỷ XIV và đặc biệt trong thế kỷ XIX, và tiếp đầu ngữ (prefix) "co" (không có nghĩa đặt Mẹ ngang hàng với Chúa trong công cuộc Cứu thế), vẫn chưa được Giáo hội chính thức xác định và công nhận, đặc biệt trong phụng vụ. II. Lịch Sử Phụng Vụ Năm 1011, một nguyện đường đầu tiên dâng kính Đức Mẹ đứng dưới chân thánh giá tại Paderborn, nước Đức. Dòng Citercian và Dòng Phanxicô khởi xướng lòng sùng kính Đức Mẹ Sầu bi từ thế kỷ XII và thế kỷ XIII. Từ đó đến năm 1969 có hai lễ Đức Mẹ Sầu bi: 1. Lễ Đức Mẹ Sầu bi ngày thứ Sáu sau Chúa nhật Khổ nạn (trước Chúa nhật lễ Lá). Năm 1423, Công đồng Cologne, nước Đức, thành lập lễ Đức Mẹ đồng thụ nạn (Compassion of Mary) để đền tạ vì tội do bè rối Hussites xúc phạm ảnh tượng Thánh giá vả ảnh tượng Đức Mẹ đứng dưới cây Thánh giá. Năm 1482, Đức Sixtô IV truyền soạn một bài lễ kính Đức Mẹ đau thương, tưởng nhớ Đức Mẹ dưới chân Thánh giá. Năm 1714, Dòng Tôi tớ Đức Mẹ được phép cử hành lễ Đức Mẹ Sầu bi vào thứ Sáu tuần Thương khó. Năm 1727, nhờ sự vận động của Dòng Tôi tớ Đức Mẹ, lễ này được Đức Bênêđictô XIII đặt hẳn vào ngày thứ Sáu sau Chúa nhật Khổ nạn. Năm 1969, lễ này bị bãi bỏ do việc cải tổ Phụng vụ sau Công đồng Vatican II. Lý do việc bãi bỏ ngày lễ Đức Mẹ đau thương ngày thứ Sáu sau Chúa nhật Khổ nạn là vì Giáo hội không muốn mừng hai lần trong một năm một biến cố hay một mầu nhiệm. 2. Lễ Đức Mẹ Sầu bi ngày 15 tháng Chín Năm 1668, Dòng Tôi tớ Đức Mẹ được phép Toà thánh mừng lễ Đức Mẹ Sầu bi ngày Chúa nhật thứ ba tháng Chín. Năm 1704, Đức Clêmentê XI ban đại xá cho những ai tham dự lễ này. Năm 1814, Đức Piô VII lập lễ này trong khắp Giáo hội để tạ ơn Đức Mẹ đã giải thoát Đức Thánh Cha khỏi sự quản thúc của vua Napoléon. Sau này, Đức thánh Piô X quyết định chuyển lễ từ Chúa nhật thứ ba tháng Chín sang ngày 15 tháng 9 sau ngày Suy tôn Thánh giá, để liên kết cuộc Đồng thụ nạn của Mẹ Maria với cuộc Khổ nạn của Chúa Giêsu. Ngoài việc thiết lập Thánh lễ, còn có những hình thức đạo đức kính Đức Mẹ Sầu bi.
Bảy Sự Đau Đớn Đức Mẹ Năm 1482, cha Gioan Couderberghe, giáo xứ Flanders, nước Bỉ, bắt đầu giảng về việc sùng kính Bảy Sự Đau đớn Đức Mẹ:
III. Ý Nghĩa Phụng Vụ
IV. Ca Tiếp Liên Trong Thánh Lễ (Stabat Mater)
V. Ý Nghĩa Lời Chúa Trong Thánh Lễ Bài đọc I: Do Thái 5:7-9 Đây là một phần chính thư Thánh Phaolô gửi giáo đoàn Do Thái khích lệ mọi người hãy cảm thương Chúa Giêsu khi còn sống ở đời này đã khổ đau đến rơi lệ. Đặc biệt trong vườn Gietsimani, Người khổ đau đến cùng cực đến nỗi đã kêu van Đấng có thể cứu Người khỏi chết. Nhưng Người đã vâng phục Chúa Cha vui lòng hy hiến để nên căn nguyên ơn Cứu độ cho chúng ta. Đoạn văn ám chỉ Mẹ Maria cũng cùng chịu đau khổ với Chúa để thông cảm với Chúa, và để đồng công với Chúa cứu chuộc loài người. Phúc âm: Luca 2:33-35 Mẹ Maria và Thánh Giuse kinh ngạc trước những lời ông già Simêon nói về Ấu Chúa Giêsu là ánh sáng cho dân ngoại và là vinh quang cho dân Do Thái. Ông Simêon chúc lành cho hai ông bà và nói tiên tri với Mẹ Maria rằng: Con Trẻ này đã được đặt lên cho sự sụp đổ hay sự đứng lên của nhiều người dân Do Thái và là mục tiêu cho người ta chống đối, một dấu hiệu kêu mời mọi người hãy mở lòng ra cho chương trình của Thiên Chúa và thường là một dấu hiệu kêu gọi người ta cải tà qui chính. Lưỡi gươm đâm thấu tâm hồn Mẹ Maria như ông Simêon tiên báo là sự thống khổ xâu xé Trái tim Mẹ. Lưỡi gươm cũng có ý nghĩa trong tiên tri Ezekiel 14:17 là sự giáng phạt của Thiên Chúa. Chúa Giêsu nói Người đến không phải để đem lại bình an, mà là gươm giáo (Mt 10:34-36), tức là sự chia rẽ (Lc 12:51-53). Chúa muốn nói "chia rẽ" là Chúa và lời Chúa như mũi gươm chia lìa các gia đình và kêu gọi các phần tử dấn thân bước theo con đường Phúc âm của Chúa. Mẹ Maria là một người tiên phong dấn thân để trung thành với tiếng Chúa mời gọi (xem Lc 8:19-21; 11:27-28). VI. Thánh Kinh 1. St 3:15: "Ta sẽ đặt mối thù giữa ngươi và người nữ, giữa dòng dõi người nữ và dòng dõi ngươi. Người nữ sẽ đạp nát đầu ngươi". Lời tiên tri này minh nhiên và mặc nhiên hàm chứa mầu nhiệm Maria, về Mẹ Chúa Cứu Thế, về mẫu chức trinh trong, về đặc ân Vô nhiễm thai, về sứ mạng Đồng công... Lời: "Ta sẽ đặt mối thù" liên quan đến vai trò Đồng công, ám chỉ Người Nữ và Dòng dõi người Nữ đối đầu với Satan và bè lũ hắn. Do đó, trong "mối thù" ẩn chứa vai trò Đồng công của Mẹ Maria. Thực vậy, Mẹ đã cộng tác với Chúa Con trong công trình Cứu chuộc loài người. Lời: "Người Nữ sẽ đạp nát đầu ngươi" tiên báo Người Nữ và Dòng dõi người sẽ chiến thắng con rắn và bè lũ hắn. Cả câu tiên tri trong tiền Phúc âm 3:15 làm nổi bật mối tương phản giữa Evà và Maria, giữa Ađam và Chúa Giêsu. Nếu Evà đồng phạm với Ađam làm hư hỏng loài người, thì Maria đồng công với Chúa Giêsu cứu chuộc loài người. 2. Is 7:14: "Một Trinh nữ sẽ thụ thai sẽ sinh Con Trai tên là Emmanuel". Trinh Nữ này là Người Nữ đã được phác họa trong lời hứa chiến thắng con rắn, lời hứa mà nguyên tổ chúng ta đã nhận được sau khi phạm tội, và chính là Người Nữ, Mẹ Đấng đã được Thiên Chúa trao phó công cuộc Cứu chuộc.
|